Có phải mọi hành vi sao chép tác phẩm đều là hành vi xâm phạm quyền tác giả. Thế nào là sao chép? Trường hợp sao chép nào hợp pháp?
- Sao chép là gì?
Sao chép là việc tạo ra một hoặc nhiều bản sao của tác phẩm hoặc bản ghi âm, ghi hình bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào, bao gồm cả việc tạo bản sao dưới hình thức điện tử (khoản 10 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 sửa đổi 2009).
- Trường hợp sao chép tác phẩm hợp pháp
Tuy nhiên, pháp luật vẫn quy định một số trường hợp ngoại lệ tại Điều 25 Luật Sở hữu trí tuệ đối với việc sao chép tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao gồm:
– Tự sao chép một bản nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cá nhân.
– Sao chép tác phẩm để lưu trữ trong thư viện với mục đích nghiên cứu
Đồng thời, Nghị định 22/2018/NĐ-CP cũng hướng dẫn:
– Tự sao chép một bản áp dụng đối với các trường hợp nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cá nhân không nhằm mục đích thương mại.
– Sao chép tác phẩm để lưu trữ trong thư viện với mục đích nghiên cứu là việc sao chép không quá một bản. Thư viện không được sao chép và phân phối bản sao tác phẩm tới công chúng, kể cả bản sao kỹ thuật số.
Sao chép tác phẩm mà không được phép của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả hoặc không thuộc các trường hợp nêu trên là hành vi xâm phạm quyền tác giả (khoản 6 Điều 28 Luật Sở hữu trí tuệ).
Tùy tính chất, mức độ hành vi xâm phạm mà các chủ thể thực hiện hành vi có thể sẽ bị xử phạt hành chính hoặc xử lý hình sự theo quy định của pháp luật.
- Xử phạt hành chính
Điều 18 Nghị định 131/2013/NĐ-CP quy định phạt tiền từ 15 – 35 triệu đồng đối với hành vi sao chép tác phẩm mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả. Đồng thời, buộc dỡ bỏ bản sao tác phẩm vi phạm dưới hình thức điện tử, trên môi trường internet và kỹ thuật số hoặc buộc tiêu hủy tang vật vi phạm đối với hành vi trên.